Hồng cầu là gì? Các công bố khoa học về Hồng cầu
Hồng cầu là loại tế bào máu nhỏ nhất trong hệ thống máu của người. Chúng có hình dạng hình tròn, không có nhân, và có chức năng chính là mang oxy từ phổi tới cá...
Hồng cầu là loại tế bào máu nhỏ nhất trong hệ thống máu của người. Chúng có hình dạng hình tròn, không có nhân, và có chức năng chính là mang oxy từ phổi tới các mô và cung cấp dưỡng chất cho cơ thể. Hồng cầu được tạo ra trong tủy xương và có tuổi thọ trung bình khoảng 120 ngày.
Hồng cầu, còn được gọi là erythrocytes, là thành phần quan trọng của máu và chịu trách nhiệm vận chuyển oxy từ phổi đến các cơ, mô và tế bào khác trong cơ thể. Hình dạng của hồng cầu hầu như là hình cầu, với một lõm ở giữa, tạo ra một diện tích bề mặt lớn và giúp cải thiện việc trao đổi oxy và carbon dioxide.
Hồng cầu không có hạt nhân, mitochondria và các cơ quan tế bào khác, điều này giúp chúng dành thời gian và năng lượng cho nhiệm vụ chính là mang oxy và loại bỏ carbon dioxide. Chúng chứa một hệ enzym đặc biệt được gọi là hemoglobin, là một phân tử protein có khả năng kết dính và vận chuyển oxy.
Mỗi ngày, hàng tỷ hồng cầu được tạo ra trong tủy xương. Quá trình này được gọi là erythropoiesis và phụ thuộc vào một loạt quá trình phân chia tế bào qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Khi hồng cầu trưởng thành, chúng rời khỏi tủy xương và được giải phóng vào hệ thống tuần hoàn máu.
Tuổi thọ trung bình của hồng cầu là khoảng 120 ngày. Sau đó, chúng bị phá hủy bởi hệ thống miễn dịch và các tế bào gan, và phần còn lại được tái chế để tạo ra các tế bào máu mới. Gặp phải bất kỳ vấn đề về hồng cầu, như thiếu máu hoặc bất thường về hình dạng, kích thước, chức năng hay cơ cấu, có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe như thiếu máu, suy dinh dưỡng, bệnh lý máu hoặc bệnh lý tế bào máu.
Hồng cầu có nhiều đặc điểm hơn nữa. Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về hồng cầu:
1. Kích thước và hình dạng: Hồng cầu có kích thước nhỏ, với đường kính khoảng 7-8 mikromet (μm). Hình dạng cơ bản của hồng cầu là hình cầu, nhưng tùy thuộc vào điều kiện và bệnh lý, hình dạng này có thể thay đổi.
2. Số lượng và cấu trúc: Trung bình, một người có khoảng 4,5-5,5 triệu hồng cầu trong mỗi microlit (μL) máu. Mỗi hồng cầu có chứa khoảng 270 triệu phân tử hemoglobin.
3. Chức năng vận chuyển oxy: Hồng cầu công cụ chính cho việc vận chuyển oxy. Bình thường, mỗi hồng cầu chứa hàng chục tỷ phân tử hemoglobin, có khả năng kết dính với oxy và carbon dioxide.
4. Đờm huyết: Khi hồng cầu hết thời hạn sử dụng hoặc bị hỏng, chúng bị phá vỡ trong các mạch máu nhỏ, chủ yếu là các mạch máu của tủy xương, gan và các mô lưu thông. Quá trình này tạo ra sản phẩm phân hủy gọi là đờm huyết.
5. Hồng cầu đỏ và hồng cầu trắng: Trong máu, hồng cầu thường được phân thành hai loại: hồng cầu đỏ và hồng cầu trắng. Hồng cầu đỏ (còn gọi là erythrocytes) chịu trách nhiệm vận chuyển oxy, trong khi hồng cầu trắng (còn gọi là leukocytes) tham gia vào cơ chế miễn dịch và bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh.
6. Cải thiện tính phân biệt: Hồng cầu có tính linh hoạt và đàn hồi, cho phép chúng đi qua các mạch máu nhỏ và các cung đường uốn cong của hệ tuần hoàn một cách dễ dàng. Điều này cho phép hồng cầu tiếp cận các nơi khó tiếp cận trong cơ thể.
7. Quá trình sản xuất hồng cầu: Quá trình sản xuất hồng cầu được gọi là erythropoiesis. Nó bắt đầu từ tủy xương, nơi các tế bào gốc đa năng chuyển đổi thành tế bào progenitor (tế bào mẹ) và sau đó phát triển thành hồng cầu chín muỗi.
8. Rối loạn hồng cầu: Một số rối loạn hồng cầu bao gồm thiếu máu (anemia), bệnh thalassemia, bệnh sơ cứng tủy xương, và bệnh bạch cầu nhiễm trùng (leukemia).
Tuy hồng cầu có kích thước nhỏ và đơn giản, nhưng chúng đóng một vai trò quan trọng để đảm bảo sự hoạt động bình thường của cơ thể.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hồng cầu":
Bài viết này cung cấp một báo cáo tình trạng về gánh nặng ung thư toàn cầu dựa trên các ước tính về tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do ung thư GLOBOCAN 2018 do Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư thực hiện, với trọng tâm là sự biến đổi địa lý qua 20 vùng trên thế giới. Dự kiến sẽ có 18,1 triệu ca ung thư mới (17,0 triệu không bao gồm ung thư da không melanin) và 9,6 triệu ca tử vong do ung thư (9,5 triệu không bao gồm ung thư da không melanin) vào năm 2018. Trung bình hai giới tính, ung thư phổi là loại ung thư thường được chẩn đoán nhất (chiếm 11,6% tổng số ca) và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư (chiếm 18,4% tổng số ca tử vong do ung thư), tiếp theo là ung thư vú ở nữ (11,6%), ung thư tuyến tiền liệt (7,1%), và ung thư đại trực tràng (6,1%) về tỷ lệ mắc và ung thư đại trực tràng (9,2%), ung thư dạ dày (8,2%), và ung thư gan (8,2%) về tỷ lệ tử vong. Ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới, tiếp theo là ung thư tuyến tiền liệt và ung thư đại trực tràng (về tỷ lệ mắc) cũng như ung thư gan và ung thư dạ dày (về tỷ lệ tử vong). Ở nữ giới, ung thư vú là loại ung thư thường được chẩn đoán nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, tiếp theo là ung thư đại trực tràng và ung thư phổi (về tỷ lệ mắc), và ngược lại (về tỷ lệ tử vong); ung thư cổ tử cung đứng thứ tư về cả tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, loại ung thư thường được chẩn đoán nhất và nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư thay đổi đáng kể giữa các quốc gia và trong mỗi quốc gia tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế và các yếu tố xã hội, lối sống liên quan. Đáng lưu ý rằng dữ liệu đăng ký ung thư chất lượng cao, cơ sở cho việc lập kế hoạch và triển khai các chương trình kiểm soát ung thư dựa trên chứng cứ, không có sẵn ở hầu hết các quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Sáng kiến Toàn cầu về Phát triển Đăng ký Ung thư là một đối tác quốc tế hỗ trợ việc ước tính tốt hơn, cũng như việc thu thập và sử dụng dữ liệu địa phương, để ưu tiên và đánh giá các nỗ lực kiểm soát ung thư quốc gia.
Bài báo này cung cấp thông tin cập nhật về gánh nặng ung thư toàn cầu dựa trên các ước tính về tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư từ GLOBOCAN 2020, được sản xuất bởi Cơ quan Quốc tế về Nghiên cứu Ung thư. Trên toàn thế giới, ước tính có 19,3 triệu ca ung thư mới (18,1 triệu ca không bao gồm ung thư da không phải tế bào sắc tố) và gần 10 triệu ca tử vong vì ung thư (9,9 triệu ca không bao gồm ung thư da không phải tế bào sắc tố) vào năm 2020. Ung thư vú ở nữ giới đã vượt qua ung thư phổi trở thành loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất, với ước tính 2,3 triệu ca mới (11,7%), tiếp theo là ung thư phổi (11,4%), ung thư đại trực tràng (10,0%), ung thư tuyến tiền liệt (7,3%) và ung thư dạ dày (5,6%). Ung thư phổi tiếp tục là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư, với ước tính 1,8 triệu ca tử vong (18%), tiếp theo là ung thư đại trực tràng (9,4%), ung thư gan (8,3%), ung thư dạ dày (7,7%) và ung thư vú ở nữ (6,9%). Tỷ lệ mắc bệnh chung cao gấp từ 2 đến 3 lần ở các quốc gia đã chuyển đổi so với các quốc gia đang chuyển đổi cho cả hai giới, trong khi tỷ lệ tử vong thay đổi <2 lần đối với nam giới và ít đối với nữ giới. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong do ung thư vú và ung thư cổ tử cung ở nữ giới lại cao hơn đáng kể ở các quốc gia đang chuyển đổi so với các quốc gia đã chuyển đổi (15,0 so với 12,8 trên 100.000 và 12,4 so với 5,2 trên 100.000, tương ứng). Gánh nặng ung thư toàn cầu dự kiến sẽ đạt 28,4 triệu ca vào năm 2040, tăng 47% so với năm 2020, với mức tăng cao hơn ở các quốc gia đang chuyển đổi (64% đến 95%) so với các quốc gia đã chuyển đổi (32% đến 56%) do các thay đổi nhân khẩu học, mặc dù điều này có thể bị ảnh hưởng thêm bởi sự gia tăng các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn cầu hóa và nền kinh tế phát triển. Những nỗ lực xây dựng một cơ sở hạ tầng bền vững để phổ biến các biện pháp phòng ngừa ung thư và cung cấp dịch vụ chăm sóc ung thư tại các quốc gia đang chuyển đổi là rất quan trọng để kiểm soát ung thư toàn cầu.
Ung thư là gánh nặng lớn đối với xã hội ở cả các quốc gia phát triển và kém phát triển. Tình trạng ung thư đang gia tăng do sự gia tăng và già hóa của dân số, cũng như sự gia tăng tỷ lệ các yếu tố nguy cơ đã biết như hút thuốc, thừa cân, thiếu vận động và sự thay đổi trong các mẫu sinh sản liên quan đến đô thị hóa và phát triển kinh tế. Dựa trên ước tính của GLOBOCAN, khoảng 14,1 triệu ca ung thư mới và 8,2 triệu ca tử vong đã xảy ra trên toàn cầu vào năm 2012. Qua các năm, gánh nặng này đã chuyển sang các quốc gia kém phát triển, hiện chiếm khoảng 57% số ca và 65% số ca tử vong do ung thư trên toàn thế giới. Ung thư phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới ở cả các quốc gia phát triển và kém phát triển, và đã vượt qua ung thư vú trở thành nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nữ giới tại các quốc gia phát triển; ung thư vú vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nữ giới tại các quốc gia kém phát triển. Một số nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư tại các quốc gia phát triển bao gồm ung thư đại trực tràng ở cả nam và nữ, và ung thư tuyến tiền liệt ở nam. Tại các quốc gia kém phát triển, ung thư gan và dạ dày ở nam giới, cùng với ung thư cổ tử cung ở nữ giới cũng là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư. Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh ung thư tổng hợp gần gấp đôi ở các quốc gia phát triển so với các quốc gia kém phát triển ở cả nam giới và nữ giới, nhưng tỷ lệ tử vong chỉ cao hơn từ 8% đến 15% ở các quốc gia phát triển. Sự chênh lệch này phản ánh sự khác biệt khu vực trong sự pha trộn của các loại ung thư, điều này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nguy cơ và thực hành phát hiện, và/hoặc khả năng tiếp cận điều trị. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư bao gồm sử dụng thuốc lá (ung thư phổi, đại trực tràng, dạ dày, và gan), thừa cân/béo phì và thiếu vận động (ung thư vú và đại trực tràng), và nhiễm trùng (ung thư gan, dạ dày, và cổ tử cung). Một phần đáng kể các ca ung thư và tử vong có thể được ngăn chặn bằng cách áp dụng rộng rãi các biện pháp phòng ngừa hiệu quả như kiểm soát thuốc lá, tiêm phòng và sử dụng các xét nghiệm phát hiện sớm.
Kỹ thuật tinh thể học X-quang đại phân tử thường được áp dụng để hiểu các quá trình sinh học ở cấp độ phân tử. Tuy nhiên, vẫn cần thời gian và nỗ lực đáng kể để giải quyết và hoàn thiện nhiều cấu trúc này do yêu cầu giải thích thủ công các dữ liệu số phức tạp thông qua nhiều gói phần mềm khác nhau và việc sử dụng lặp đi lặp lại đồ họa ba chiều tương tác.
Bài báo này trình bày mô tả về gói hóa học lượng tử
Cấu trúc khung hữu cơ kim loại (MOFs) được tạo thành bằng cách liên kết các đơn vị vô cơ và hữu cơ thông qua các liên kết mạnh (tổng hợp mạng). Sự linh hoạt trong việc thay đổi hình học, kích thước và chức năng của các thành phần đã dẫn đến hơn 20.000 MOFs khác nhau được báo cáo và nghiên cứu trong thập kỷ qua. Các đơn vị hữu cơ là các carboxylat hữu cơ ditopic hoặc polytopic (và các phân tử tích điện âm tương tự khác), khi liên kết với các đơn vị chứa kim loại, tạo ra các cấu trúc tinh thể MOF có kiến trúc chắc chắn với độ xốp điển hình lớn hơn 50% thể tích tinh thể MOF. Giá trị diện tích bề mặt của MOFs như vậy thường dao động từ 1000 đến 10,000 m 2 /g, vượt qua các vật liệu xốp truyền thống như zeolites và carbons. Cho đến nay, MOFs có độ xốp cố định đã trở thành loại đa dạng và phong phú hơn bất kỳ lớp vật liệu xốp nào khác. Những khía cạnh này đã làm cho MOFs trở thành ứng viên lý tưởng để lưu trữ nhiên liệu (hydro và methane), bắt giữ carbon dioxide và ứng dụng xúc tác, để kể một vài ví dụ.
Khả năng thay đổi kích thước và đặc tính của cấu trúc MOF mà không thay đổi cấu trúc dưới của chúng đã tạo ra nguyên lý đồng cấu trúc và ứng dụng của nó trong việc tạo ra MOFs với kích thước lỗ lớn nhất (98 Å) và mật độ thấp nhất (0,13 g/cm 3 ). Điều này đã cho phép đưa vào chọn lọc các phân tử lớn (ví dụ, vitamin B 12 ) và protein (ví dụ, protein huỳnh quang xanh) và khai thác các lỗ chân lông làm bình phản ứng. Dọc theo những dòng này, độ bền nhiệt và hóa học của nhiều MOFs đã khiến chúng trở nên thích hợp cho các phương pháp chức năng hóa hậu tổng hợp vô cơ và phức hợp kim loại. Các khả năng này cho phép tăng đáng kể lưu trữ khí trong MOFs và đã dẫn đến việc nghiên cứu sâu rộng của chúng trong xúc tác các phản ứng hữu cơ, hoạt hóa các phân tử nhỏ (hydro, methane, và nước), tách khí, hình ảnh y sinh và dẫn proton, electron và ion. Hiện nay, các phương pháp đang được phát triển để tạo ra các tinh thể nano và siêu tinh thể của MOFs để đưa vào thiết bị.
Kiểm soát chính xác chuỗi lắp ráp của MOFs dự kiến sẽ thúc đẩy lĩnh vực này tiến xa hơn vào các lĩnh vực hóa học tổng hợp mới, trong đó có thể tiếp cận các vật liệu tinh vi hơn nhiều. Ví dụ, các vật liệu có thể được hình dung như có (i) các khoang liên kết với nhau để hoạt động riêng lẻ, nhưng hoạt động đồng bộ; (ii) sự uyển chuyển để thực hiện các hoạt động song song; (iii) khả năng đếm, phân loại và mã hóa thông tin; và (iv) khả năng động học với độ trung thực cao. Những nỗ lực theo hướng này đang được thực hiện thông qua việc giới thiệu một số lượng lớn các nhóm chức khác nhau trong lỗ chân lông của MOFs. Điều này tạo ra các cấu trúc đa biến trong đó sự sắp xếp các chức năng khác nhau dẫn đến việc cung cấp một sự kết hợp đồng bộ các thuộc tính. Công việc trong tương lai sẽ bao gồm việc lắp ráp các cấu trúc hóa học từ nhiều loại đơn vị xây dựng khác nhau, sao cho chức năng của các cấu trúc này được chỉ định bởi sự dị hỗn của sự sắp xếp cụ thể của các thành phần của chúng.
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) là nguyên nhân chính gây ra bệnh gan trên toàn thế giới. Chúng tôi đã ước lượng tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tiến triển và kết quả của NAFLD và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) trên toàn cầu. PubMed/MEDLINE đã được tìm kiếm từ năm 1989 đến 2015 với các thuật ngữ liên quan đến dịch tễ học và tiến triển của NAFLD. Các trường hợp loại trừ bao gồm các nhóm bị lựa chọn (các nghiên cứu chỉ bao gồm người béo phì hoặc tiểu đường hoặc trẻ em) và không có dữ liệu về tiêu thụ rượu hoặc các bệnh gan khác. Tỉ lệ phát sinh của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), xơ gan, tử vong chung và tử vong liên quan đến gan đều được xác định. NASH yêu cầu chẩn đoán bằng mô học. Tất cả các nghiên cứu đã được ba nhà điều tra độc lập rà soát. Phân tích được phân tầng theo khu vực, kỹ thuật chẩn đoán, chỉ định sinh thiết và dân số nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng mô hình các tác động ngẫu nhiên để cung cấp các ước lượng điểm (khoảng tin cậy 95% [CI]) về tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tỉ lệ tử vong và tỉ lệ phát sinh, đồng thời mối liên hệ phân tích theo nhóm con để giải thích dị biệt. Trong số 729 nghiên cứu, có 86 nghiên cứu được bao gồm với cỡ mẫu 8.515.431 từ 22 quốc gia. Tỉ lệ hiện mắc NAFLD toàn cầu là 25,24% (CI 95%: 22,10-28,65), với tỉ lệ cao nhất ở Trung Đông và Nam Mỹ và thấp nhất ở Châu Phi. Các bệnh đồng mắc chuyển hóa liên quan đến NAFLD bao gồm béo phì (51,34%; CI 95%: 41,38-61,20), đái tháo đường loại 2 (22,51%; CI 95%: 17,92-27,89), rối loạn mỡ máu (69,16%; CI 95%: 49,91-83,46), tăng huyết áp (39,34%; CI 95%: 33,15-45,88), và hội chứng chuyển hóa (42,54%; CI 95%: 30,06-56,05). Tỉ lệ tiến triển xơ hóa và tốc độ tiến triển trung bình hàng năm trong NASH lần lượt là 40,76% (CI 95%: 34,69-47,13) và 0,09 (CI 95%: 0,06-0,12). Tỉ lệ phát sinh HCC trong số bệnh nhân NAFLD là 0,44 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 0,29-0,66). Tử vong do gan và tử vong chung trong NAFLD và NASH lần lượt là 0,77 trên 1.000 (phạm vi, 0,33-1,77) và 11,77 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 7,10-19,53) và 15,44 trên 1.000 (phạm vi, 11,72-20,34) và 25,56 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 6,29-103,80). Tỉ lệ rủi ro phát sinh đối với tử vong do gan và tử vong chung cho NAFLD lần lượt là 1,94 (phạm vi, 1,28-2,92) và 1,05 (phạm vi, 0,70-1,56).
Chúng tôi đã tạo ra một tập dữ liệu mới về dữ liệu khí hậu tháng được nội suy không gian cho các vùng đất toàn cầu với độ phân giải không gian rất cao (khoảng 1 km2). Tập dữ liệu này bao gồm nhiệt độ hàng tháng (tối thiểu, tối đa và trung bình), lượng mưa, bức xạ mặt trời, áp suất hơi nước và tốc độ gió, được tổng hợp trong khoảng thời gian mục tiêu từ 1970–2000, sử dụng dữ liệu từ 9000 đến 60 000 trạm khí tượng. Dữ liệu từ các trạm khí tượng được nội suy bằng cách sử dụng spline mỏng với các biến covariate bao gồm độ cao, khoảng cách đến bờ biển và ba biến covariate từ vệ tinh: nhiệt độ bề mặt đất tối đa và tối thiểu cũng như độ che phủ mây, thu được từ nền tảng vệ tinh
Bài báo này trả lời câu hỏi, “Tại sao các tổ chức lại xử lý thông tin?” Sự không chắc chắn và sự mơ hồ được định nghĩa là hai yếu tố ảnh hưởng đến việc xử lý thông tin trong các tổ chức. Cấu trúc tổ chức và các hệ thống nội bộ xác định cả lượng và sự phong phú của thông tin được cung cấp cho các nhà quản lý. Các mô hình được đề xuất cho thấy cách mà các tổ chức có thể được thiết kế để đáp ứng nhu cầu thông tin về công nghệ, quan hệ liên phòng ban và môi trường. Một hàm ý đối với các nhà quản lý là một vấn đề chính là thiếu sự rõ ràng, chứ không phải thiếu thông tin. Các mô hình chỉ ra cách mà các tổ chức có thể được thiết kế để cung cấp các cơ chế thông tin nhằm giảm thiểu sự không chắc chắn và giải quyết sự mơ hồ.
Các peptide hoặc protein có thể chuyển đổi từ dạng hòa tan sang các tập hợp fibril có trật tự cao dưới một số điều kiện nhất định. Những chuyển đổi này có thể gây ra các tình trạng bệnh lý từ các rối loạn thoái hóa thần kinh đến các bệnh amyloidoses hệ thống. Trong bài đánh giá này, chúng tôi xác định các bệnh liên quan đến sự hình thành các tập hợp fibril và các peptide cũng như protein cụ thể liên quan trong mỗi trường hợp. Chúng tôi cũng mô tả rằng các sinh vật sống có thể tận dụng khả năng tự nhiên của protein để hình thành các cấu trúc như vậy nhằm tạo ra các chức năng sinh học mới và đa dạng. Chúng tôi xem xét những tiến bộ gần đây trong việc làm rõ cấu trúc của các sợi amyloid và các cơ chế hình thành chúng ở cấp độ phân tử. Cuối cùng, chúng tôi thảo luận về tầm quan trọng tương đối của các tương tác chuỗi chính và chuỗi bên phổ biến trong việc xác định khuynh hướng của protein đối với sự tập hợp và mô tả một số bằng chứng cho thấy các tiền thân fibril oligomer chính là nguồn gốc chính của hành vi bệnh lý.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10